Về nguyên tắc, hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định, giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức vô hiệu là 02 năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập; hết thời hiệu này mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực căn cứ theo điểm đ khoản 1 và khoản 2 Điều 132 Bộ luật dân sự năm 2015.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, hợp đồng không tuân thủ về hình thức có thể bị vô hiệu nếu không đáp ứng được các điều kiện cụ thể. Điều này được quy định trong Bộ luật Dân sự 2015 và một số văn bản pháp luật liên quan.
Cụ thể:
1.Quy định về hình thức hợp đồng – Điều 119 BLDS 2015: Hợp đồng có thể được giao kết bằng lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể, trừ trường hợp pháp luật quy định phải lập thành văn bản, phải có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký.
–Điều 401 BLDS 2015 : Khi pháp luật quy định hợp đồng phải được lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực, thì việc không tuân thủ các yêu cầu này có thể dẫn đến việc hợp đồng bị vô hiệu.
Điều 129. Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức
-Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó;
-Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực”
Như vậy, hợp đồng không bị vô hiệu dù không tuân thủ hình thức Hợp đồng không tuân thủ hình thức có thể không bị tuyên vô hiệu nếu: – Một bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong hợp đồng, theo quy định tại Điều 129 BLDS 2015. – Trong trường hợp này, pháp luật bảo vệ tính hiệu lực của hợp đồng nhằm bảo đảm quyền lợi của bên đã thực hiện nghĩa vụ.
4.Hệ quả pháp lý khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu Khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu:
Điều 131. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.
Kết luận Hợp đồng không tuân thủ quy định về hình thức sẽ bị vô hiệu nếu:
– Hình thức hợp đồng là điều kiện bắt buộc do pháp luật quy định.
– Các bên không khắc phục vi phạm về hình thức trong thời hạn luật định (nếu có). Tuy nhiên, trong một số trường hợp, hợp đồng vẫn có thể được công nhận để bảo vệ quyền lợi của bên đã thực hiện nghĩa vụ chủ yếu.